a- Mở bài
Cha” ở đây là Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn, sinh vào khoảng cuối những năm 1220, mất ngày 20-8 năm Canh Tý (1300). Ông là nhà quân sự thiên tài, ba lần cầm quân đánh đuổi giặc Mông – Nguyên (1258, 1285 và 1288), được phong chức Quốc công tiết chế, thống lĩnh quân đội cả nước. Ông còn là tác giả bài Hịch tướng sĩ, các sách Binh thư yếu lược, Vạn Kiếp tông bí truyền thư. Tương truyền, sau khi mất, ông hiển Thánh (Đức Thánh Trần) và được thờ ở các đền Kiếp Bạc (Hải Dương), Bảo Lộc (Ninh Bình), Yên Cư (Ninh Bình) và ở TP Hồ Chí Minh.
“Mẹ” ở đây là thánh mẫu Liễu Hạnh. Tương truyền, bà là công chúa Quỳnh Hoa, con của Ngọc Hoàng thượng đế trên trời, vì lỡ tay làm vỡ chén ngọc nên bị đày xuống trần gian năm 1557, đầu thai vào nhà họ Lê ở xã Vân Cát, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định, có tên là Giáng Tiên. Sau được trở về trời nhưng bà xin xuống lại hạ giới, cứu giúp nhân dân. Bà mất ngày 3-3 Âm lịch, được sắc phong là Thượng đẳng tối linh Thần và được thờ ở phủ Giầy (Nam Định), phủ Tây Hồ (Hà Nội), đền Sòng, đền Phố Cát (Thanh Hóa), đền Phủ Giầy (TP. Hồ Chí Minh)….
b- Thân bài
Nhân dân tôn vinh Trần Hưng Đạo là cha, Liễu Hạnh là mẹ; ngày giỗ của hai vị trở thành những lễ hội dân gian vừa trang nghiêm, vừa vui vẻ.
Vào đầu thời Lê, tại ấp Quảng Nạp, xã Vỉ Nhuế, huyện Ý Yên, Nam Định có một gia đình họ Phạm, hai vợ chồng đều là những người hiền lành, tu nhân tích đức nhưng hiềm một nỗi đã ngoài 40 tuổi mà chưa có con. Một đêm rằm tháng hai, ông bà được thần báo mộng là Ngọc Hoàng sẽ cho con gái thứ hai đầu thai làm con, từ đó người vợ mang thai. Vào đêm trước khi bà ra đời, bỗng như có một nàng tiên từ trong đám mây bước xuống thềm nhà rồi người vợ sinh một bé gái. Do đó, hai vợ chồng đặt tên con là Phạm Tiên Nga.
Phạm Tiên Nga càng lớn càng xinh đẹp, mọi việc nữ công gia chánh đều thành thạo, đảm đang. Không lâu sau, thân phụ của bà qua đời, hai năm sau mẫu thân cũng về nơi tiên cảnh. Phạm Tiên Nga đã làm lễ an táng cha mẹ ở phía đông nam phủ Nghĩa Hưng (nay là thôn La Ngạn, nơi đây có đền thờ Phụ thân và Mẫu thân của Phạm Tiên Nga).
Sau 3 năm để tang cha mẹ, bà bắt đầu chu du khắp nơi làm việc thiện. Bà đã ủng hộ tiền của và công sức giúp dân đắp đê ngăn nước Đại Hà từ bên kia phía núi Tiên Sơn (nay là núi Gôi) đến Tịch Nhi (nay chính là đường đê Ba Sát, nối Quốc lộ 10 chạy dọc xã đến ngã ba Vọng). Đây cũng chính là con đường nối di tích Phủ Dày với Phủ Quảng Cung. Cùng với đó, bà còn cho làm 15 cây cầu đá, khơi ngòi dẫn nước tưới tiêu, khai khẩn đất ven sông, giúp tiền bạc cho người nghèo, chữa bệnh cho người ốm, sửa đền chùa, cấp lương bổng cho các vị hương sư, khuyên họ cố sức dậy dỗ con em nhà nghèo được học hành…
Năm 36 tuổi, bà đến bờ sông Đồi dựng một ngôi chùa trên mảnh vườn nhỏ, đặt tên là Chùa Kim Thoa, bên trên thờ đức Nam Hải Quan Thế Âm Bồ Tát, bên dưới thờ thân phụ và thân mẫu.
Sau đó hai năm, bà tới tu sửa chùa Sơn Trường - Ý Yên, Nam Định; chùa Long Sơn - Duy Tiên, Hà Nam; chùa Thiện Thành ở Đồn Xá - Bình Lục, Hà Nam. Tại chùa Đồn Xá, Bà còn chiêu dân phiêu tán, lập ra làng xã, dậy dân trồng dâu, nuôi tằm, dệt vải.
Tháng Giêng năm Nhâm Thìn (1472), bà trở lại chùa Kim Thoa rồi tháng 9 năm ấy, bà trở về quê cũ tu sửa đền thờ tổ họ Phạm khang trang bề thế. Sau đó Bà lại đi chu du ở trong vùng, khuyên răn bà con dân làng những điều phải trái.
c- Kết bài
Trong đêm ngày 2 tháng 3 năm Quý Tỵ, thời Hồng Đức (1473), trời nổi cơn giông, gió cuốn, mây bay, bà đã hoá thần về trời. Năm đó bà vừa tròn 40 tuổi.