0 k thích
trong Hỏi đáp Ngữ Văn lớp 9 bởi (32.0k điểm)

Lập dàn ý giải thích câu ngụ binh ư nông lớp 9 xin một vài dàn ý ngắn gọn hay

a- Mở bài

Giới thiêu

Đây là chính sách xây dựng quân đội gắn liền với nông dân, nông nghiệp và nông thôn. Nhà Đinh là triều đại phong kiến đầu tiên ở Việt Nam áp dụng chính sách này. Bắt đầu từ thời Lý, quân đội được xây dựng mang tính chính quy và phân cấp thành quân triều đình (cấm quân đóng ở trong và xung quanh kinh thành, chịu trách nhiệm canh gác cung điện, phủ quan..., còn gọi là "thiên tử binh") và quân địa phương (quân ở các lộ, đạo, dân binh ở hương, động, sách... còn gọi là "lộ quân" hay "sương quân"). Sang thời Trần có thêm quân của các vương hầu nhưng số lượng không đáng kể. Sang thời Hậu Lê thì lực lượng này bị xoá bỏ, chính sách ngụ binh ư nông áp dụng cả với cấm quân ở kinh thành. Từ thời Mạc, áp dụng chế độ "lộc điền" (hay còn gọi là "binh điền") nhằm ưu đãi cho lực lượng quân đội, chính sách ngụ binh ư nông không còn được áp dụng[1]. Tới khoảng năm 1790, một dạng của phép ngụ binh ư nông được Nguyễn Ánh thi hành ở khu vực Gia Định, miền cực nam Đại Việt, theo đó binh lính cũng được huy động vào việc sản xuất nông nghiệp.

b- Thân bài

Gỉai thích

Họ vừa tham gia chiến đấu vừa được khuyến khích lẫn bị bắt buộc cầy cấy để tận dụng các mảnh đất bị bỏ hoang vì chiến tranh[2].

c- Kết bài

cảm nhận bản thân

3 Trả lời

0 k thích
bởi (32.0k điểm)

a- Mở bài

Giới thiêu

Ngụ binh ư nông là gì?

b- Thân bài

Gỉai thích

Ngụ binh ư nông là "gửi binh ở nông: gửi quân vào nông nghiệp, cho binh lính lao động, sản xuất tại địa phương trong một khoảng thời gian xác định", là chính sách xây dựng lực lượng quân sự thời phong kiến ở Việt Nam 

Đây là chính sách xây dựng quân đội gắn liền với nông dân, nông nghiệp và nông thôn. Nhà Đinh là triều đại phong kiến đầu tiên ở Việt Nam áp dụng chính sách này. Bắt đầu từ thời Lý, quân đội được xây dựng mang tính chính quy và phân cấp thành quân triều đình (cấm quân đóng ở trong và xung quanh kinh thành, chịu trách nhiệm canh gác cung điện, phủ quan..., còn gọi là "thiên tử binh") và quân địa phương (quân ở các lộ, đạo, dân binh ở hương, động, sách... còn gọi là "lộ quân" hay "sương quân"). Sang thời Trần có thêm quân của các vương hầu nhưng số lượng không đáng kể. Sang thời Hậu Lê thì lực lượng này bị xoá bỏ, chính sách ngụ binh ư nông áp dụng cả với cấm quân ở kinh thành. Từ thời Mạc, áp dụng chế độ "lộc điền" (hay còn gọi là "binh điền") nhằm ưu đãi cho lực lượng quân đội, chính sách ngụ binh ư nông không còn được áp dụng. Tới khoảng năm 1790, một dạng của phép ngụ binh ư nông được Nguyễn Ánh thi hành ở khu vực Gia Định, miền cực nam Đại Việt, theo đó binh lính cũng được huy động vào việc sản xuất nông nghiệp.

c- Kết bài

cảm nhận bản thân

Họ vừa tham gia chiến đấu vừa được khuyến khích lẫn bị bắt buộc cày cấy để tận dụng các mảnh đất bị bỏ hoang vì chiến tranh.

0 k thích
bởi (32.0k điểm)

a- Mở bài

Giới thiêu

Lịch sử dân tộc Việt Nam đã ghi những dấu son chói lọi trong nghệ thuật giữ nước, trong việc kết hợp giữa xây dựng và bảo vệ giang sơn, bờ cõi. Đặc biệt, dưới thời Lý, Trần, Lê Sơ (hậu Lê), nước Đại Việt được biết đến như một quốc gia thịnh vượng ở châu Á. Đây là những thời kỳ phát triển rực rỡ nhất trong lịch sử phong kiến Việt Nam trên mọi phương diện. Theo các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước, thời kỳ này được coi là Kỷ nguyên văn minh Đại Việt, được khởi đầu bằng sự kiện năm 1010, Lý Công Uẩn ban Chiếu dời đô từ Hoa Lư ra Thăng Long (nay là Hà Nội). Đây cũng là thời kỳ đất nước ta trải qua những cuộc chống quân xâm lược oanh liệt nhất. Đó là cuộc chiến tranh chống quân Tống (1075-1077), ba lần đánh tan quân xâm lược Mông - Nguyên (các năm 1258, 1285, 1288), và 10 năm khởi nghĩa chống quân Minh, giải phóng đất nước dưới sự lãnh đạo của Lê Lợi - Nguyễn Trãi.

b- Thân bài

Gỉai thích

Trong điều kiện như vậy, việc xây dựng một nền quốc phòng đủ mạnh, có khả năng chuyển nhanh từ thời bình sang thời chiến để chống giặc ngoại xâm là một vấn đề được các triều đại phong kiến ưu tiên hàng đầu. Vì thế, “Ngụ binh ư nông” là sách lược được cả ba triều đại Lý, Trần, Lê Sơ lựa chọn và đã phát huy hiệu quả. 

Đối với thời nhà Lý, đường lối “Ngụ binh ư nông” đã được xây dựng và đi vào quy chế. Theo đó, việc kết hợp quốc phòng với kinh tế áp dụng trong bản thân tổ chức quân thường trực, được quy định thành phép tắc. Cấm quân là lực lượng thường trực, thường xuyên phải túc trực tại ngũ để canh phòng và luyện tập. Loại quân này được Nhà nước cung cấp, nuôi dưỡng theo chế độ của từng giai đoạn. Họ được phát quân trang và cấp lương bằng tiền, bằng thóc, gạo và kèm theo một số thực phẩm khác. Còn các quân khác, cụ thể là “Sương quân” và quân các lộ (ngoại binh) đều được thực hiện phép “chia phiên” theo chính sách “Ngụ binh ư nông”. Các đơn vị được chia thành nhiều phiên; thay đổi nhau theo định kỳ, một phiên túc trực tại ngũ, luyện tập, canh gác hay phục dịch, các phiên khác trở về gia đình tham gia sản xuất, tự túc lương ăn. Sách “Việt sử tiêu án” viết rằng: “Chế độ binh lính nhà Lý, mỗi tháng lên cơ ngũ một lần, gọi là đi canh, hết canh lại về làm ruộng, quân không phải cấp lương”. Có thể nói, chính sách “Ngụ binh ư nông” đã thể hiện rõ vai trò và sức mạnh khi đội quân nhà Lý đi chinh phạt Chiêm Thành. Đoàn quân đi đến đâu, việc tiếp tế binh lương đều được chu tất. Nhờ đó, người dân nước Đại Việt được hưởng thái bình, đời sống xã hội phát triển hưng thịnh. Binh lính cùng người dân mở mang các tuyến giao thương từ miền xuôi đến miền ngược, từ thị thành tới nông thôn, cả trên đường bộ và đường thủy. 

Sang đến thời nhà Trần rồi tiếp đến nhà hậu Lê, chính sách “Ngụ binh ư nông” ngày càng hoàn chỉnh và đi vào nền nếp. Thời bình dân đinh thay nhau vào lính, binh lính luân phiên về làm ruộng. Triều đình có quân “cấm vệ”, “túc vệ” là lực lượng thường trực cơ động với số lượng ít, được tuyển lựa và rèn luyện thành tinh binh. Ở địa phương có “ngoại binh”, “binh các đạo” luân phiên về sản xuất, tự túc lương ăn. Ngoài ra còn có các dân binh ở làng, xã, hoàn toàn không thoát ly sản xuất. Chính vì vậy, triều đình giảm được nhiều chi phí nuôi quân mà vẫn xây dựng và tổ chức được các đạo binh hùng mạnh, góp phần tạo nên sức mạnh tổng hợp giữ nước, đánh thắng các đội quân xâm lược có số lượng đông hơn ta nhiều lần trong điều kiện lịch sử lúc bấy giờ. Cách tổ chức lực lượng như trên đã tạo ra một thế trận quốc phòng rộng khắp và thuận lợi. Ở đâu có dân là ở đó có quân, tức là những trai tráng từng được tập trung luyện tập quân sự, có tên trong sổ, thời bình ở nhà sản xuất, có biến được huy động vào quân ngũ. Với chính sách đó, khi quân giặc xâm lấn bờ cõi, có thể huy động lực lượng vũ trang ngay tại địa bàn để tổ chức chặn đánh kịp thời. Nhất là khi đất nước phải đương đầu với cuộc chiến tranh xâm lược quy mô lớn, triều đình có thể nhanh chóng huy động được nguồn binh lực lớn và có nguồn bổ sung dồi dào trong quá trình kháng chiến. Khi đất nước yên bình, một lượng lớn quân lính lại trở về với cuộc sống thường ngày.

Thời kỳ nhà Trần và hậu Lê, nhờ có sự kết hợp giữa quân và dân, nông nghiệp phát triển mạnh mẽ, thóc gạo dự trữ dồi dào. Hơn thế, hệ thống thủy lợi được chú ý phát triển, không những phục vụ giao lưu kinh tế mà còn phục vụ đắc lực cho nhu cầu quân sự khi chiến tranh xảy ra (đê sông Hồng được đắp vào thời kỳ này), các làng nghề tiểu thủ công nghiệp phát triển mạnh, nhất là các nghề có liên quan đến quốc phòng của đất nước.

c- Kết bài

cảm nhận bản thân

Thành công và là nét sáng tạo đặc sắc của chính sách “Ngụ binh ư nông” các triều đại Lý, Trần, Lê Sơ chính là đã xây dựng được một quân đội có số lượng ít nhưng tinh nhuệ, với một lực lượng dự bị đông đảo, được huấn luyện kỹ càng, sẵn sàng trở thành quân chủ lực để đối phó với sự xâm lược của ngoại bang.

0 k thích
bởi (32.0k điểm)

a- Mở bài

Giới thiêu

Tác dụng

Nhu cầu bảo vệ đất nước và bảo vệ chính quyền cai trị cần một lực lượng quân đội hùng hậu. Tuy nhiên, nhu cầu nhân lực để sản xuất nông nghiệp cho đời sống cũng rất lớn. Vì vậy việc đưa quân về địa phương luân phiên cày cấy giúp lực lượng này tự túc được về lương thực, bớt gánh nặng về lương thực nuôi quân cho triều đình[7].

b- Thân bài

Gỉai thích

Ngụ binh ư nông là việc liên kết hài hoà giữa việc quân sự và nông nghiệp, giữa kinh tế và quân sự, chuyển hóa nhanh từ thời bình và sang thời chiến khi cần. Nhờ chính sách này, triều đình có được lực lượng quân đội hùng mạnh, đông đảo trong khi sản xuất nông nghiệp vẫn được duy trì. Thời Lý có số quân tham chiến chống nhà Tống khoảng 10 vạn người[8], thời Trần khi có chiến tranh chống quân Nguyên có hơn 20 vạn quân[3], sang thời Lê sơ khi có chiến tranh có thể huy động 26-30 vạn quân[9]. 

Chính sách ngụ binh ư nông phản ánh tư duy nông binh bất phân (không phân biệt quân đội và nông dân), đâu có dân là đó có quân, phù hợp với điều kiện xây dựng nền quốc phòng của một nước đất không rộng, người không đông, cần phải huy động tiềm lực cả nước vừa sản xuất, vừa đánh giặc[10].

c- Kết bài

cảm nhận bản thân

Tới những thời đại sau thời Lê sơ, chính sách này không còn được áp dụng do tình trạng cát cứ và chiến tranh triền miên trong cả nước. Ngay như thời Tây Sơn, thời đại mà trình độ quân sự phát triển rất cao, yêu cầu tác chiến thường xuyên không cho phép những người lãnh đạo duy trì chính sách này.

...