0 k thích
trong Hỏi đáp Ngữ Văn lớp 9 bởi (32.0k điểm)

Lập dàn ý giải thích câu xướng ca vô loài lớp 9 xin một vài dàn ý ngắn gọn hay

a-Mở bài

 

BP - Lê Thánh Tông là vị vua đa tài nhưng cũng đa tình

 Ít ai biết trong hậu cung của ông có 2 bí mật mà chính sử không hề nhắc đến. Chuyện thứ nhất liên quan đến quan điểm “xướng ca vô loài”. Vào thời ấy, trong dân gian có câu “xướng ca vô loài”,

b-Thân bài

 tỏ ý khinh miệt, coi thường người làm nghề hát múa. Trong xã hội thành kiến ấy, những đào nương, kép hát, cô đầu, ả đào, ca nữ, xướng nhi..., dù tên gọi có lúc khác nhau nhưng địa vị không được coi trọng. Hơn thế nữa, con nhà “xướng ca vô loài” không được đi thi, quan lại bị cấm lấy vợ “xướng ca vô loài”... Nhưng thật bất ngờ, chính Lê Thánh Tông, người đặt ra lệnh cấm ấy lại có một người vợ làm nghề ca xướng. Về chuyện này, các sách “Tang thương ngẫu lục”, “Ức Trai tập sự trạng”... và dã sử lưu truyền rằng, khi gia đình Nguyễn Trãi bị tru di, một người thiếp đang mang thai trốn được, sau sinh con gái đặt tên là Nguyễn Thị Đào. Cô Đào bị câm từ nhỏ nhưng rất xinh đẹp, có tài gảy đàn, gõ phách.

là một quan niệm thành kiến, sai lầm thời phong kiến, ý nói những kẻ làm nghề ca hát là hoàn toàn mất hết nhân phẩm, bị khinh rẻ, không thuộc tầng lớp nào trong xã hội.

Thời xưa, trong xã hội được phân ra thành bốn giai cấp chính: Sĩ nông công thương, gọi là tứ dân.

Trong đó:

Sĩ được xếp là giai cấp đầu tiên, được xã hội trọng vọng. Sĩ là từ để chỉ tầng lớp trí thức, có học, có hiểu biết.

Nông là chỉ những người nông dân làm ruộng.

Công là chỉ những người làm thủ công nghiệp.

c-Kết luận

Thương là những người hoạt động buôn bán, vai trò của họ bị đặt ở hàng thấp nhất trong xã hội.

Và với 4 tầng lớp như thế, thì những người làm nghề ca hát không thuộc tầng lớp nào, nên mới có câu Xướng ca vô loài.

3 Trả lời

0 k thích
bởi (32.0k điểm)

a-Mở bài

Thần tích xã An Lão, xứ Sơn Nam (nay là huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình) chép rằng: Một lần, đội nữ nhạc được gọi vào cung biểu diễn, khi mọi người đều hát thì cô Đào im lặng ngồi gõ phách.

b-Thân bài

Vua Lê Thánh Tông nhìn thấy mới hỏi nguyên do. Nghe vậy, bỗng nhiên cô gái đứng bật dậy hát: Ví dù duyên chẳng nợ nần; Thì đem nhau xuống cõi trần làm chi? Khi ấy, cả vua, quan và đội nữ nhạc đều ngạc nhiên và thán phục giọng hát làm rung động lòng người của cô. Sau đó, cô Đào lại ngâm tiếp 2 bài thơ chữ Hán khiến ai ai cũng kinh ngạc. Lê Thánh Tông thấy lạ bèn sai người dẫn vào hầu thái hậu Ngọc Dao. Mới nhìn thấy cô, thái hậu cảm thấy như đã từng gặp ở đâu đó. Cuối cùng, bà nhớ ra giấc mộng kỳ lạ khi mang thai, phải chăng ngọc nữ chính là cô gái này? Thái hậu kể lại cho vua nghe giấc mộng của mình, Lê Thánh Tông liền giữ cô Đào ở lại và lập làm hoàng hậu Trường Lạc.

Câu chuyện thứ hai về một phi tần người Chăm. Thời đó, tư tưởng Nho giáo còn phân biệt về xuất xứ dân tộc nên triều Lê có lệnh cấm quan lại lấy vợ là người dân tộc thiểu số “man di”, nhất là người Chiêm. Và cũng thật oái oăm, Lê Thánh Tông - ông vua chịu ảnh hưởng lớn của Nho giáo lại có một người vợ như vậy. Theo chính sử, năm 1471, vua dẫn đại quân đi đánh Chiêm Thành để diệt mầm họa chiến tranh ở biên cương phía Nam và giành được thắng lợi lớn. Trong cuộc chiến này, Lê Thánh Tông đã đưa về một mỹ nhân người Chiêm. Xuất thân của người phụ nữ này rất đặc biệt, nàng là một trong số những người vợ của vua Chiêm Trà Toàn.

Có thể khi hậu phi của vua Chiêm bị bắt, Lê Thánh Tông rung động trước sắc đẹp của nàng nên quyết định nạp thành phi tần vào chốn hậu cung của mình. Tuy nhiên, có thuyết nói rằng, cô gái Chiêm này là vợ của Trà Toàn, bị vua Chiêm mới là Bố Trì Trì bắt đem dâng lên vua Lê Thánh Tông cùng nhiều bảo vật cống nạp để tỏ lòng thần phục. Thuyết khác lại cho rằng, nàng là một trong số những người đẹp được vua Chiêm tuyển chọn để dâng cống Lê Thánh Tông. Không rõ mỹ nhân người Chiêm đó tên thật là gì, chỉ biết rằng sau khi thành vợ vua Lê Thánh Tông, nàng được gọi là Phạm Thị Ngọc Đô. Nàng rất được nhà vua yêu quý, không chỉ bởi xinh đẹp mà còn khéo tay, giỏi thêu thùa, đặc biệt có tài canh cửi dệt vải lĩnh.

Tuy nhiên, nhiều đại thần không chấp nhận việc một cô gái dị tộc được nhiều sủng ái của hoàng đế, hơn nữa lại từng là tỳ thiếp của vua Chiêm. Chính vì thế, họ dâng sớ khuyên vua từ bỏ. Bản thân Lê Thánh Tông cũng thấy để một cô gái Chiêm trong cung cấm Việt e không tiện. Cho nên vua đã cắt một nửa làng Trích Sài (nay thuộc phường Bưởi, quận Tây Hồ, TP. Hà Nội) lập thành trang Thiên Niên, cho dựng phủ đệ để cung phi Ngọc Đô cùng tùy tùng cư ngụ, lại dựng chùa Thiên Niên để họ lễ Phật cầu kinh.

Tại đây, cung phi Ngọc Đô và các thị nữ đem cách dệt vải lĩnh của người Chiêm dạy cho dân làng Trích Sài và nhân dân các làng Võng Thị, Bái Ân. Nàng khuyến khích dân làng trồng dâu, nuôi tằm. Từ đó vải lĩnh, đặc biệt là lĩnh hoa của các làng thuộc vùng Bưởi nổi tiếng khắp nơi. Chuyện kể rằng, bà phi Ngọc Đô sinh nở một lần nhưng chẳng may qua đời cả mẹ lẫn con. Dân làng Trích Sài nhớ công ơn của bà nên đã dựng miếu thờ.

“Xướng ca vô loài” là một quan niệm của Nho giáo và là một thành kiến sai lầm thời phong kiến. Ý của câu nói này là những người làm nghề ca hát thì hoàn toàn mất hết nhân phẩm, bị khinh rẻ, không thuộc tầng lớp nào trong xã hội phong kiến. Vì thời xưa, trong xã hội được phân ra thành 4 giai cấp chính: Sĩ, nông, công, thương, hay còn gọi là tứ dân. Trong đó: Sĩ là giai cấp đầu tiên, được xã hội trọng vọng. Sĩ là từ để chỉ tầng lớp trí thức, có học, có hiểu biết. Nông là chỉ những người nông dân làm ruộng. Công là chỉ những người làm nghề thủ công nghiệp. Thương là những người hoạt động buôn bán, vai trò của họ bị đặt ở hàng thấp nhất trong xã hội. Và với 4 tầng lớp như thế, những người làm nghề ca hát không thuộc tầng lớp nào, nên mới có câu “xướng ca vô loài”.

c-Kết luận

Năm 1945, sau khi Nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa ra đời, Bộ trưởng Bộ Giáo dục - Mỹ thuật ngày ấy là ông Hoàng Xuân Hãn đã làm một cuộc cách mạng văn hóa, đưa hát xướng vào chương trình bậc trung học. Từ đó, hát xướng trở thành môn học bắt buộc. Và nghề ca hát chính thức thoát khỏi cái nhục vô loài. Ngày nay, ở nước ta có nhiều trường đại học dạy âm nhạc, kịch, tuồng, chèo, cải lương, với đủ bộ môn xướng ca. Chưa hết, những nghệ sĩ xuất sắc được tặng danh hiệu, gắn huân chương. Ai dại mồm dại miệng tuyên bố “xướng ca vô loài” chắc chắn sẽ bị xã hội lên án và xem thường.

0 k thích
bởi (32.0k điểm)

a-Mở bài

Quan niệm “xướng ca vô loài” dưới chế độ phong kiến bắt nguồn từ đâu và ảnh hưởng đến xã hội như thế nào? (Hà Mỹ, Sơn Trà, Đà Nẵng).

b-Thân bài

- Dưới thời phong kiến, “xướng ca vô loài” là cụm từ ám chỉ những người làm nghề ca hát với nghĩa khinh bỉ, miệt thị.

Nhà nghiên cứu Toan Ánh trong Phong tục Việt Nam (NXB Khai Trí, Sài Gòn, 1969, tr.429) cho rằng “vô loài” liên quan tới quan niệm “vô luân” của người xưa như sau:

“Xã hội ta xưa quan niệm lũ xướng ca vô loài là một tầng lớp vô luân. Họ bị coi là vô luân không phải vì họ sa đọa, chính sự sống của họ cũng không phải là sa đọa, mà chỉ vì những vai trò của họ đóng khi xướng hát: họ bị coi là vô luân ở đây vì người con có thể đóng một vai vua và người cha đóng vai bầy tôi quỳ lạy, anh em ruột có thể đóng đôi vợ chồng, và vợ chồng lại có thể đóng vai mẹ con hoặc cha con... Tất cả cái vô luân là ở đây, ở đấy luân thường đã không còn nữa, mặc dầu chỉ trong những lúc trình diễn”.

Tác giả Thanh Thủy trong bài viết Nguồn gốc của định kiến “xướng ca vô loài” thì cho thành ngữ này có xuất xứ từ Trung Quốc qua câu chuyện dưới đây:

Theo sử cổ Trung Hoa, Nhà Thương (1766 - 1402 TCN) về sau đổi thành Nhà Ân (1401 - 1123 TCN) với vị vua cuối cùng là Trụ Vương bị một bộ tộc khác là Nhà Châu, một nước chư hầu, lật đổ sau 643 năm trị vì thiên hạ. Dĩ nhiên, con dân Nhà Thương (Ân) phải ôm một mối hận nhà tan và mối nhục mất nước, trong khi đó thì nhóm đàn bà con gái trong làng ca nhi của Nhà Thương, vì miếng ăn, manh áo, cùng nhau tụ tập ở các tửu điếm bên sông Tần Hoài, dùng lời ca, tiếng hát của mình để phục vụ cho quan quân và người của chế độ mới (tức là người của bộ tộc Nhà Châu) mà quên đi nỗi nhục nước mất, nhà tan của mình.

Làng ca nhi nầy của Nhà Thương đã làm ô nhục cho đất nước họ, một mối nhục muôn đời không gội rửa được, có lẽ vì thế mà người của Nhà Thương đã loại bỏ loại người hành nghề xướng ca nầy ra ngoài lề xã hội sinh hoạt của họ. Việc làm ô nhục của giới ca nhi nầy đã bị người đời mỉa mai, khinh bỉ. Gần 2 ngàn năm sau, đến đời Nhà Đường (618 - 907 sau Công Nguyên), thi hào Đỗ Mục đã phải viết lên bài thơ Bạc Tần Hoài, được Lệ Thần Trần Trọng Kim dịch như sau:

Khói lồng nước bóng trăng lồng cát

Bến Tần Hoài thuyền sát tửu gia

Gái ca đâu nghĩ nước nhà

Cách sông vẫn hát khúc ca Hậu Đình

Trong đó, nguyên văn chữ Hán của hai câu sau đã được người đời nhắc nhở: Thương nữ bất tri vong quốc hận/ Cách giang do xướng Hậu Đình hoa.

c-Kết luận

Theo chúng tôi, “xướng ca vô loài” có xuất xứ từ Việt Nam, bởi người Việt  theo luân lý Nho giáo, có cái nhìn rất khắt khe đối với sự “vô luân”, “vô loài” của các “bọn phường chèo” hay “con hát” ngày xưa, như nhận định của Toan Ánh. Việt Nam đã từng có nhiều nhân vật nổi tiếng bị gian truân vì quan điểm khắt khe, cổ hủ ấy. Trong đó, nổi tiếng nhất là trường hợp Đào Duy Từ (1572 - 1634) vì có cha làm nghề ca hát, nên ông không được đi thi để ra làm quan dưới triều vua Lê - chúa Trịnh.

 

0 k thích
bởi (32.0k điểm)

a-Mở bài

Ý chỉ những người theo nghiệp cầm ca thì chẳng được công nhận thuộc tầng lớp nào.(thời xưa chỉ chia ra "công- nông-thương-sĩ") Quan niệm này mở rộng cho những người làm nghệ thuật nói chung.

b-Thân bài

"Xã hội ta xưa quan niệm lũ xướng ca vô loài là một tầng lớp vô luân. Họ bị coi là vô luân không phải vì họ sa đọa, chính sự sống của họ cũng không phải là sa đọa, mà chỉ vì những vai trò của họ đóng khi xướng hát: họ bị coi là vô luân ở đây vì người con có thể đóng một vai vua và người cha đóng vai bày tôi quỳ lạy, anh em ruột có thể đóng đôi vợ chồng, và vợ chồng lại có thể đóng vai mẹ con hoặc cha con... Tất cả cái vô luân là ở đây, ở đấy luân thường đã không còn nữa, mặc dầu chỉ trong những lúc trình diễn."

c-Kết luận

Nhưng bây giờ xướng ca lại được công nhận rộng rãi.

...