a- Mở bài
Giới thiêu
Lịch sử dân tộc Việt Nam đã ghi những dấu son chói lọi trong nghệ thuật giữ nước, trong việc kết hợp giữa xây dựng và bảo vệ giang sơn, bờ cõi. Đặc biệt, dưới thời Lý, Trần, Lê Sơ (hậu Lê), nước Đại Việt được biết đến như một quốc gia thịnh vượng ở châu Á. Đây là những thời kỳ phát triển rực rỡ nhất trong lịch sử phong kiến Việt Nam trên mọi phương diện. Theo các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước, thời kỳ này được coi là Kỷ nguyên văn minh Đại Việt, được khởi đầu bằng sự kiện năm 1010, Lý Công Uẩn ban Chiếu dời đô từ Hoa Lư ra Thăng Long (nay là Hà Nội). Đây cũng là thời kỳ đất nước ta trải qua những cuộc chống quân xâm lược oanh liệt nhất. Đó là cuộc chiến tranh chống quân Tống (1075-1077), ba lần đánh tan quân xâm lược Mông - Nguyên (các năm 1258, 1285, 1288), và 10 năm khởi nghĩa chống quân Minh, giải phóng đất nước dưới sự lãnh đạo của Lê Lợi - Nguyễn Trãi.
b- Thân bài
Gỉai thích
Trong điều kiện như vậy, việc xây dựng một nền quốc phòng đủ mạnh, có khả năng chuyển nhanh từ thời bình sang thời chiến để chống giặc ngoại xâm là một vấn đề được các triều đại phong kiến ưu tiên hàng đầu. Vì thế, “Ngụ binh ư nông” là sách lược được cả ba triều đại Lý, Trần, Lê Sơ lựa chọn và đã phát huy hiệu quả.
Đối với thời nhà Lý, đường lối “Ngụ binh ư nông” đã được xây dựng và đi vào quy chế. Theo đó, việc kết hợp quốc phòng với kinh tế áp dụng trong bản thân tổ chức quân thường trực, được quy định thành phép tắc. Cấm quân là lực lượng thường trực, thường xuyên phải túc trực tại ngũ để canh phòng và luyện tập. Loại quân này được Nhà nước cung cấp, nuôi dưỡng theo chế độ của từng giai đoạn. Họ được phát quân trang và cấp lương bằng tiền, bằng thóc, gạo và kèm theo một số thực phẩm khác. Còn các quân khác, cụ thể là “Sương quân” và quân các lộ (ngoại binh) đều được thực hiện phép “chia phiên” theo chính sách “Ngụ binh ư nông”. Các đơn vị được chia thành nhiều phiên; thay đổi nhau theo định kỳ, một phiên túc trực tại ngũ, luyện tập, canh gác hay phục dịch, các phiên khác trở về gia đình tham gia sản xuất, tự túc lương ăn. Sách “Việt sử tiêu án” viết rằng: “Chế độ binh lính nhà Lý, mỗi tháng lên cơ ngũ một lần, gọi là đi canh, hết canh lại về làm ruộng, quân không phải cấp lương”. Có thể nói, chính sách “Ngụ binh ư nông” đã thể hiện rõ vai trò và sức mạnh khi đội quân nhà Lý đi chinh phạt Chiêm Thành. Đoàn quân đi đến đâu, việc tiếp tế binh lương đều được chu tất. Nhờ đó, người dân nước Đại Việt được hưởng thái bình, đời sống xã hội phát triển hưng thịnh. Binh lính cùng người dân mở mang các tuyến giao thương từ miền xuôi đến miền ngược, từ thị thành tới nông thôn, cả trên đường bộ và đường thủy.
Sang đến thời nhà Trần rồi tiếp đến nhà hậu Lê, chính sách “Ngụ binh ư nông” ngày càng hoàn chỉnh và đi vào nền nếp. Thời bình dân đinh thay nhau vào lính, binh lính luân phiên về làm ruộng. Triều đình có quân “cấm vệ”, “túc vệ” là lực lượng thường trực cơ động với số lượng ít, được tuyển lựa và rèn luyện thành tinh binh. Ở địa phương có “ngoại binh”, “binh các đạo” luân phiên về sản xuất, tự túc lương ăn. Ngoài ra còn có các dân binh ở làng, xã, hoàn toàn không thoát ly sản xuất. Chính vì vậy, triều đình giảm được nhiều chi phí nuôi quân mà vẫn xây dựng và tổ chức được các đạo binh hùng mạnh, góp phần tạo nên sức mạnh tổng hợp giữ nước, đánh thắng các đội quân xâm lược có số lượng đông hơn ta nhiều lần trong điều kiện lịch sử lúc bấy giờ. Cách tổ chức lực lượng như trên đã tạo ra một thế trận quốc phòng rộng khắp và thuận lợi. Ở đâu có dân là ở đó có quân, tức là những trai tráng từng được tập trung luyện tập quân sự, có tên trong sổ, thời bình ở nhà sản xuất, có biến được huy động vào quân ngũ. Với chính sách đó, khi quân giặc xâm lấn bờ cõi, có thể huy động lực lượng vũ trang ngay tại địa bàn để tổ chức chặn đánh kịp thời. Nhất là khi đất nước phải đương đầu với cuộc chiến tranh xâm lược quy mô lớn, triều đình có thể nhanh chóng huy động được nguồn binh lực lớn và có nguồn bổ sung dồi dào trong quá trình kháng chiến. Khi đất nước yên bình, một lượng lớn quân lính lại trở về với cuộc sống thường ngày.
Thời kỳ nhà Trần và hậu Lê, nhờ có sự kết hợp giữa quân và dân, nông nghiệp phát triển mạnh mẽ, thóc gạo dự trữ dồi dào. Hơn thế, hệ thống thủy lợi được chú ý phát triển, không những phục vụ giao lưu kinh tế mà còn phục vụ đắc lực cho nhu cầu quân sự khi chiến tranh xảy ra (đê sông Hồng được đắp vào thời kỳ này), các làng nghề tiểu thủ công nghiệp phát triển mạnh, nhất là các nghề có liên quan đến quốc phòng của đất nước.
c- Kết bài
cảm nhận bản thân
Thành công và là nét sáng tạo đặc sắc của chính sách “Ngụ binh ư nông” các triều đại Lý, Trần, Lê Sơ chính là đã xây dựng được một quân đội có số lượng ít nhưng tinh nhuệ, với một lực lượng dự bị đông đảo, được huấn luyện kỹ càng, sẵn sàng trở thành quân chủ lực để đối phó với sự xâm lược của ngoại bang.